Cảm Nhận Bài Thơ “Chiều Tối” Hay Nhất. Cảm nhận của em về cảnh thiên nhiên trong bài thơ “Chiều Tối”. Có thể nói, chỉ với mấy câu ngắn ngủi nhưng bài thơ “Chiều Tối” đã thể hiện một cách hoàn hảo cảnh thế giới đang chuyển từ ngày sang đêm trước mắt người đọc.
Qua bài thơ này, tác giả đã khắc họa nên một khung cảnh thơ mộng, bình dị về sự thống nhất giữa con người và thiên nhiên. Sau đây là ví dụ về thơ muộn cực hay và chi tiết sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm.
Dàn ý cảm nhận bài Chiều tối
I. Mở bài:
Giới thiệu tác giả Hồ Chí Minh và bài thơ Chiều tối trích Nhật ký trong tù
II. Thân bài: Nêu cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh
1. Hai câu đầu: Bức tranh thiên nhiên
- Con người luôn hướng về thiên nhiên
- Cảnh chiều tối âm u, hiu quạnh, vắng vẻ
- Hình ảnh mang tượng trưng cho cảnh chiều tà
- Hình ảnh chòm mây gợi tả không gian mênh mông, rộng lớn
- Hình ảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp cổ điển, thơ mộng
- Qua hai câu thơ cảm nhận được ý chí, nghị lực của con người
2. Hai câu thơ cuối: Bức tranh đời sống
- Những hình ảnh đời sống dân dã, đời thường
- Bức tranh gần gũi, quen thuộc, mộc mạc
- Hình ảnh con người lấn át hình ảnh thiên nhiên mênh mông, rộng lớn nhưng vắng vẻ
- Thể hiện tình yêu thương, quan tâm đến số phận của người lao động nghèo
- Ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình của người nghèo
- Bừng lên sức sống mãnh liệt của con người
3. Nghệ thuật
III. Kết bài: Khái quát cảm nhận của em về bài thơ một cách ngắn gọn
Mở bài cảm nhận bài thơ “Chiều Tối”
Mở bình luận buổi tối – Ví dụ 1
Đó là sự hy sinh, mất mát của biết bao người để có một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc và phát triển như ngày nay. Và có một người mà cả dân tộc ta yêu quý và kính trọng vô hạn, đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Để giành lại tự do cho dân tộc, người tù cách mạng Hồ Chí Minh dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn có niềm hy vọng vào cuộc sống và sự lạc quan về tương lai. Luận điểm này được Bác Hồ thể hiện rất rõ trong bài thơ “Chiều tối”.
Đánh giá buổi tối mở – Ví dụ 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, một chiến sĩ quốc tế, luôn ấp ủ tình yêu Tổ quốc và khát vọng giải phóng dân tộc. Bác Hồ đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng, không những thế Bác còn là một nhà văn hóa lớn có nhiều cống hiến trên lĩnh vực văn học. Cảm hứng thơ đến với người chiến sĩ Cộng sản bất cứ lúc nào, dù là tù đày, ngục tù cũng không thể giam cầm tâm hồn họ. Bài thơ “Bữa cơm” được Bác Hồ viết khi Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ, nhưng nó vẫn thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu con người, lạc quan, tràn đầy niềm tin vào tương lai tươi sáng. tương lai của đất nước. lập lờ.
Đánh giá buổi tối mở – Ví dụ 3
“Nhật ký trong tù” chưa bao giờ hết hấp dẫn người đọc, không chỉ nằm ở nội dung đa nghĩa, giàu ý nghĩa mà còn ở sự kết hợp tài tình giữa chất thơ trữ tình và lãng mạn. đồng thời. Trong đó, bài thơ “Chạng vạng” là một điểm nhấn, làm toát lên vẻ đẹp phong cách riêng của Bác Hồ, Nguyễn Đăng Mông đã từng nhận xét: “Từ tư tưởng đến hình tượng thơ bao giờ cũng hướng tới sự sống, ánh sáng và ánh sáng, ánh sáng và tương lai. ” Có lẽ tên là Chiều tà, còn nhân vật trữ tình là người tù được miêu tả qua những bức tranh thiên nhiên, nhưng sâu thẳm trong tim anh ta có ngọn lửa sống đẹp rực cháy, “xác thì lao động, còn tinh thần thì ở ngoài lao động”. Nỗi sợ hãi bị chà đạp, môi trường sống khắc nghiệt, tinh thần sắt đá, bản lĩnh hiên ngang hiện lên ở Bác – một chiến sĩ cách mạng vĩ đại.
Những mẫu cảm nhận bài thơ Chiều tối siêu hay
Cảm nhận bài thơ Chiều tối – Bài văn mẫu 1
Tác phẩm hay là tác phẩm chứa đựng giá trị tư tưởng sâu sắc. Ở đó, ta thấy không chỉ tài năng của nhà văn, mà còn thấy được tâm hồn và nhân cách của nhà thơ. Bài thơ “Chiều Tối” là một bài thơ như thế, Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ dân tộc đáng kính, nhà thơ dân tộc yêu quê hương đất nước, đã viết nên một bài thơ gây xúc động sâu sắc trong tâm hồn. Nhưng có lẽ, mãi về sau bài thơ mới có tác dụng.
“Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ,
Chòm mây nhẹ giữa tầng không”
Sau một ngày dài kiếm ăn, đàn chim nối đuôi nhau trở về rừng tìm nơi nghỉ ngơi. Chiều tối, những cánh chim mỏi vỗ nhẹ trên không trung. Một đám mây lững thững trôi giữa không gian vô định, cảnh vật dịu dàng mà đượm một nỗi buồn man mác. Điều lạ lùng là cùng một người tù sầu muộn trốn nhà đi là một cảnh hay tâm hồn buồn. Thời khắc cuối ngày cũng là lúc màn đêm buông xuống, đây là lúc mọi người tạm gác lại mọi công việc và trở về với bữa cơm sum vầy bên gia đình. Có lẽ lúc ấy, Bác cũng ao ước được đứng trên chính quê hương mình, đoàn tụ với đồng bào và những người con của dân tộc. Tuy nhiên, hiện thực còn nhiều khó khăn nên cảnh cũng buồn, mây lẻ loi, chim mỏi, ẩn dụ thân phận yếu đuối, lẻ loi, mảnh đất quạnh quẽ. Khách quê. Nỗi nhớ quê hương không thể nguôi ngoai trong tâm trí nhà thơ, càng cô đơn lại càng nhớ da diết. Bằng cách tả cảnh ngụ tình quen thuộc, tâm trạng của Bác được thể hiện trọn vẹn. Phong cảnh và cảm xúc là hai trong một—con người tận hưởng, nhưng phong cảnh thì không.
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Không gian sống mở đơn giản. Cô gái xay ngô giữa trời đêm tĩnh lặng đến lạ lùng. Giữa muôn vàn việc lớn lao, Bác nhìn lại công trường – xay ngô đen. Tất nhiên, Bác rất trân trọng giây phút này, trân trọng từng giây phút lao động của con người. Phải có một tâm hồn tinh tế thì nhà thơ mới nhận ra được vẻ đẹp rất bình dị trong cuộc sống như thế. Đây là vẻ đẹp của một người sống trong cảnh nghèo khó, tuy vất vả nhưng rất thoải mái, đáng quý và đáng yêu. Hình ảnh con người chung sống hài hòa với vẻ đẹp của thiên nhiên càng làm cho bức tranh đêm thêm ấm áp và sống động. Nó mang lại sức sống cho núi rừng, tuy hoang vắng nhưng nó tràn đầy sức sống. Dường như chính sự khao khát sống, khao khát những điều đẹp đẽ, ước mơ tự do cho mọi người thì sống trong đau khổ, tù đày ta càng trân trọng công việc và cuộc sống hơn. Chữ “hồng” trở thành nhãn, trung tâm của bài thơ. Ngọn lửa không chỉ là một vật thể, mà là biểu tượng của ngọn lửa cách mạng, ngọn lửa của hòa bình và tình yêu. Ánh lửa đã xua đi cái lạnh của đêm, sự mệt mỏi của ngày dài và sự suy ngẫm của những người tù chiến tranh cách mạng. Ngọn lửa hồng thắp lên niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước, nhất là hòa bình trong lao động của nhân dân.
Đọc xong bài thơ này, hẳn ai cũng sẽ có những suy nghĩ của riêng mình. Với tôi, bài thơ này không chỉ làm tôi cảm nhận được tình yêu quê hương của Bác mà còn khiến tôi nhận ra cuộc sống lao động bình dị, giản dị của nhân dân và cuộc sống tự do của thế hệ sau. Chúng tôi đã có nó ngày hôm nay. Từ đó em càng yêu Bác hơn, càng thêm tự hào về tinh thần thơ ca dân tộc cao cả. Đồng thời dạy cho em thái độ sống trước cuộc đời, trước những gian nan, vất vả, đứng trước những khó khăn, thử thách của cuộc đời, em vẫn kiên định niềm tin, hướng về ngọn lửa đỏ, hướng về một tương lai đầy hy vọng. . .Thử thách hiện tại dù có tạo cho bạn áp lực cũng không thể khiến bạn gục ngã, kiệt sức có thể lung lay nhưng đừng lùi bước, hãy đối mặt với mặt trời, bóng tối ở sau lưng bạn. Luôn tích cực trong mọi tình huống.
Cảm nhận bài thơ “Chiều tối” – văn mẫu 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta đã hy sinh biết bao nhiêu năm tháng cho Tổ quốc. Ông không chỉ là một chiến sĩ cách mạng, mà còn là một nhà thơ có tâm hồn lãng mạn, bay bổng. Trong những năm tháng bị giam cầm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch và nhiều lần di chuyển nhà tù, Bác Hồ đã bắt gặp những cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp. Bị mê hoặc bởi những vẻ đẹp này, ông đã viết bài thơ “Mộ” (Chiều tối). Đoạn thơ là vẻ đẹp của cảnh vật thiên nhiên và con người lao động hiện tại. Đọc bài thơ này, ta thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh dù ở trong ngục tù tăm tối, bẩn thỉu nhưng vẫn cảm nhận được một tâm hồn bình thản, lạc quan.
Hai đoạn đầu thiên nhiên lúc hoàng hôn:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Bức tranh hơi buồn vì không phải là bức tranh bình minh rực rỡ mà là bức tranh của buổi chiều tà, khi mặt trời đã tắt và mặt trời đang dần lặn. Đó là lúc con chim phải tìm đường về tổ, được nghỉ ngơi bên gia đình và ngày mai lại bay đi. Tất nhiên, đứng trước khung cảnh thiên nhiên hoang vắng lúc chiều tà như vậy, nhà thơ cũng sẽ có nhiều cảm xúc. Chợt tôi nhớ đến câu “ngàn nỗi buồn” của Hoàng Xán khi ông ngắm hoàng hôn trong bài thơ “Tràng Giang”:
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Những con chim mệt mỏi, giống như những tù nhân mỏi chân sau khi phải di chuyển cả ngày. Khi mặt trời lặn cũng là lúc con người và vạn vật nghỉ ngơi, cũng là lúc con người cảm nhận rõ ràng hoàn cảnh của chính mình. Nếu như Huy Cận cảm thấy “đơn độc” giữa không gian rộng lớn bao la thì Hồ Chí Minh lại cảm thấy lẻ loi, cô đơn trong bốn bức tường. Giờ phút này, lòng anh trào dâng nỗi nhớ nhà, nhớ nhà da diết. Ta không thấy được yếu tố buồn, sầu trong thơ, tác giả nhớ nhà, nhớ nhà, nhớ nhà nhưng cũng không quá buồn, chỉ bộc lộ tâm trạng nhất thời. Nhưng nhà thơ luôn có một tâm trạng ung dung, tự tại và dễ dãi, kiêu kỳ. Hai câu tiếp theo làm cho điều này rất rõ ràng.
Trong màn đêm mịt mù, anh vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của người dân lao động:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Hình ảnh người lao công hiện lên trên nền bức tranh sống động và có hồn. Nhà thơ đã sử dụng màu sắc để làm cho bức tranh tĩnh lặng đó thêm hấp dẫn. Việc cô gái cao nguyên kết hợp làm việc và nghỉ ngơi với làm việc và nghỉ ngơi cho thấy tinh thần hăng say làm việc và lao động của con người này rất đáng trân trọng. Chắc Bác nhớ đến đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó của người Việt Nam qua hình ảnh người con gái. Dù ở đồng bằng hay miền núi, những phẩm chất cao đẹp của họ không bao giờ phai nhạt. Ngô là biểu tượng của nông nghiệp, thịnh vượng và hạnh phúc. Với niềm tin rằng sự chăm chỉ, cần cù chắc chắn sẽ được đền đáp xứng đáng trong cuộc sống, con người đang nỗ lực hết mình để có một cuộc sống tốt đẹp hơn, đầy đủ hơn. Chỉ trong hai câu thơ, ta thấy được tình yêu cuộc sống, tình yêu chân thực, thiết tha với cuộc đời của người quản ngục. Dù trong tù có u uất đến đâu, nhưng so với hiện tại tươi đẹp bên ngoài, chú He vẫn sẽ nhìn về phía tích cực và tràn đầy hy vọng vào cuộc sống và tương lai.
Bốn dòng cuối bài thơ đủ nói lên phẩm chất của Bác Hồ và phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Họ không bao giờ khuất phục hoàn cảnh, đầu hàng số phận mà luôn tìm kiếm, hy vọng vào những điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống. Nhờ những người này mà đất nước chúng ta có hòa bình ngày hôm nay.
Phong cách thơ Hồ Chí Minh cũng giống như phong cách trang nghiêm của Người, dứt khoát, cao trào, lãng mạn và tích cực. Đọc những vần thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta không khỏi thở dài, sao một người đã hết lòng vì nước mà lại có lúc thưởng ngoạn cảnh đẹp, lại có một tâm hồn lãng mạn, bay bổng như vậy. Đó là vì Người là vị lãnh tụ có một không hai của đất nước ta và là một danh nhân văn hóa nổi tiếng mà không phải nước nào trên thế giới cũng có được!
Cảm nhận bài thơ “Chiều tối” – Bài văn mẫu 3
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận định chung trong bài “Hồ Chủ tịch-Hình tượng Tổ quốc”: Hồ Chủ tịch là người sống rất tình cảm, vì tình mà đi làm cách mạng. Trong thế giới tình thương vô biên của Ngài dành cho con người, cho con cái, cho bạn bè gần xa, phải có chỗ cho tình thân. Lớp học buổi tối có thể tiết lộ một ước mơ thầm kín, một mái nhà ấm áp, một bến đỗ trên con đường vạn dặm xa xôi.
“Đêm” là khổ thơ thứ 31 của tập “Nhật ký trong tù”, ghi lại cảm xúc của nhà thơ trên đường đi từ nhà tù này đến nhà tù khác. Trên con đường gian khổ ấy, con đường khác. Đột nhiên anh chú ý đến cánh chim chiều
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ”
Bài thơ không chỉ diễn tả cảnh vật mà còn bộc lộ tình cảm của nhà thơ. Làm sao bạn biết rằng con chim đang mệt mỏi, và làm sao bạn có thể nói chắc chắn rằng mục đích của con chim là tìm nơi ngủ trong rừng, vì vậy nó nằm trong lòng của con chim? Câu này chỉ báo hiệu trời đã về chiều, mọi hoạt động ban ngày đã mệt mỏi, đã đến lúc tìm một nơi để nghỉ ngơi. Câu này tương phản với hình ảnh đám mây lẻ loi sau đây:
“Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Bản dịch đẹp, nhưng ít thơ hơn bản gốc. Nó mất chữ cô trong đám mây, có nghĩa là cô đơn và một đám mây cô đơn, rất có ý nghĩa. Từ nhẹ và rung rinh thậm chí không thể mô tả ý nghĩa của từ “hung hăng”. Đối với độ là hành động đi từ bờ biển này sang bờ biển khác, giống như chèo thuyền từ con tàu sang sông, và độ của mặt trời ở lại trong nhiều ngày, và độ 0 đang chuyển từ chân trời này sang chân trời khác, con đường mới là bao xa Và đám mây vô tận! Ngã mạn là biểu hiện của sự trì hoãn, chậm chạp. Đám mây lẻ loi trôi từ phương trời này sang phương trời kia, nhưng nó vẫn chậm chạp, và tôi không biết khi nào nó sẽ đến? Và khi trời đã tối, nó vẫn lơ lửng giữa không trung, như một người tù bị giải đi trên con đường vạn dặm, không biết dừng chân ở đâu! Trong hình ảnh ấy, anh còn phải gửi gắm nỗi cô đơn, khắc khoải, nhớ nhà da diết. Chỉ có hai câu thơ, vừa tả cảnh, vừa tả cảnh, vừa tả tình người. Đây chính là chức năng giản dị và thừa thãi trong thơ cổ điển.
Nếu như hai câu đầu nói về con chim mỏi trở về rừng tìm chỗ trú, và đám mây lẻ loi không biết trú ở đâu, thì hai câu tiếp theo nói về chỗ ngủ của người:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng.”
Trong bản dịch, người dịch rõ ràng đã thêm chữ hắc ám, và thi nhân cổ kim chỉ muốn người đọc cảm nhận được bóng tối đang đến mà không có bất kỳ sự chú ý trực tiếp nào. Điều này tiết lộ bộ tứ. Nhưng đây là cái khó của người dịch. Điều đáng chú ý là một cảnh lao động gia đình hết sức bình dị, dân dã: người chị ở xóm núi đang xay hạt ngô, sàng hạt ngô, bếp hồng. Chị lửa, thay mặt gia cảnh. Khi hạt ngô đã được xay, bếp hồng lại tượng trưng. Đối với công việc và nghỉ ngơi. Tạo không khí thoải mái cho hành khách. Điều thứ hai cần lưu ý là màu hồng trong nguyên văn là màu ấm và rực lửa chứ không phải màu đỏ chứng tỏ nhà thơ có ý nói về sự ấm áp chứ không phải ánh sáng hồng. Căn bếp lạnh lẽo, tro tàn là biểu tượng của sự cô đơn, lẻ loi. Điều đáng chú ý thứ ba là nhà thơ cứ đứng trên núi như thế, như thể mình đang ở bên cạnh. Lại nữa, nhà thơ phải đứng rất lâu mới nhìn thấy sự trôi qua của thời gian trong câu: Cô em xóm núi xay ngô hạt – Ngô hạt xay xong bếp đã hồng? Chỉ là bài thơ bên đường. Vì thế nó chỉ là một khung cảnh được tưởng tượng trong tâm trí tôi, phía trước là xóm núi bên đường, như một biểu tượng của quê hương, nơi đoàn tụ của người thân. Cái kết này tuy không lấp lánh màu hồng lạc quan cách mạng như tôi hiểu nhưng nó vẫn ấm áp tình người, khiến lòng người bớt cô đơn. im lặng. Cùng với hình ảnh ấy, một giấc mơ thầm kín về một mái ấm gia đình thấp thoáng đâu đó. Nếu chúng ta để ý bài thơ trước thì đây là bài Đi đường
“Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.”
Một đường không cuối, khúc sau là khúc ru ngủ Long Tuyền:
Cặp ngựa đi bộ không ngừng mỗi ngày. Rau mồng tơi gà ngũ vị: Ăn đêm, thừa cỏ lạnh, chọi rệp, sớm bị pháo kích, khoái tiếng hát hàng xóm. Rồi ta sẽ thấy sự xuất hiện của cảnh gia đình ấy là điều dễ hiểu. Điều đó chứng tỏ trái tim của những người cách mạng vẫn đập theo nhịp của những con người bình dị gần gũi với mọi người.
Nghệ thuật thơ là nghệ thuật gián tiếp cổ điển nói lời tình cảm. Hình tượng trong bài thơ cũng là một quan niệm nghệ thuật. Nếu chỉ phân tích nó như một bức tranh hiện thực giản đơn thì nhất định xa rời thế giới nội tâm phong phú của nhà thơ.
Cảm nhận bài thơ Chiều tối ngắn gọn – mẫu 4
Tác phẩm hay là tác phẩm chứa đựng giá trị tư tưởng sâu sắc. Ở đó, ta thấy không chỉ tài năng của nhà văn, mà còn thấy được tâm hồn và nhân cách của nhà thơ. Bài thơ “Chiều Tối” là một bài thơ như thế, Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ dân tộc đáng kính, nhà thơ dân tộc yêu quê hương đất nước, đã viết nên một bài thơ gây xúc động sâu sắc trong tâm hồn. Nhưng có lẽ, mãi về sau bài thơ mới có tác dụng.
“Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ,
Chòm mây nhẹ giữa tầng không”
Sau một ngày dài kiếm ăn, đàn chim nối đuôi nhau trở về rừng tìm nơi nghỉ ngơi. Chiều tối, những cánh chim mỏi vỗ nhẹ trên không trung. Một đám mây lững thững trôi giữa không gian vô định, cảnh vật dịu dàng mà đượm một nỗi buồn man mác. Điều lạ lùng là cùng một người tù sầu muộn trốn nhà đi là một cảnh hay tâm hồn buồn. Thời khắc cuối ngày cũng là lúc màn đêm buông xuống, đây là lúc mọi người tạm gác lại mọi công việc và trở về với bữa cơm sum vầy bên gia đình. Có lẽ lúc ấy, Bác cũng ao ước được đứng trên chính quê hương mình, đoàn tụ với đồng bào và những người con của dân tộc. Tuy nhiên, hiện thực còn nhiều khó khăn nên cảnh cũng buồn, mây lẻ loi, chim mỏi, ẩn dụ thân phận yếu đuối, lẻ loi, mảnh đất quạnh quẽ. Khách quê. Nỗi nhớ quê hương không thể nguôi ngoai trong tâm trí nhà thơ, càng cô đơn lại càng nhớ da diết. Bằng cách tả cảnh ngụ tình quen thuộc, tâm trạng của Bác được thể hiện trọn vẹn. Phong cảnh và cảm xúc là hai trong một—con người tận hưởng, nhưng phong cảnh thì không.
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Không gian sống mở đơn giản. Cô gái xay ngô giữa trời đêm tĩnh lặng đến lạ lùng. Giữa muôn vàn việc lớn lao, Bác nhìn lại công trường – xay ngô đen. Tất nhiên, Bác rất trân trọng giây phút này, trân trọng từng giây phút lao động của con người. Phải có một tâm hồn tinh tế thì nhà thơ mới nhận ra được vẻ đẹp rất bình dị trong cuộc sống như thế. Đây là vẻ đẹp của một người sống trong cảnh nghèo khó, tuy vất vả nhưng rất thoải mái, đáng quý và đáng yêu. Hình ảnh con người chung sống hài hòa với vẻ đẹp của thiên nhiên càng làm cho bức tranh đêm thêm ấm áp và sống động. Nó mang lại sức sống cho núi rừng, tuy hoang vắng nhưng nó tràn đầy sức sống. Dường như chính sự khao khát sống, khao khát những điều đẹp đẽ, ước mơ tự do cho mọi người thì sống trong đau khổ, tù đày ta càng trân trọng công việc và cuộc sống hơn. Chữ “hồng” trở thành nhãn, trung tâm của bài thơ. Ngọn lửa không chỉ là một vật thể, mà là biểu tượng của ngọn lửa cách mạng, ngọn lửa của hòa bình và tình yêu. Ánh lửa đã xua đi cái lạnh của đêm, sự mệt mỏi của ngày dài và sự suy ngẫm của những người tù chiến tranh cách mạng. Ngọn lửa hồng thắp lên niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước, nhất là hòa bình trong lao động của nhân dân.
Đọc xong bài thơ này, hẳn ai cũng sẽ có những suy nghĩ của riêng mình. Với tôi, bài thơ này không chỉ làm tôi cảm nhận được tình yêu quê hương của Bác mà còn khiến tôi nhận ra cuộc sống lao động bình dị, giản dị của nhân dân và cuộc sống tự do của thế hệ sau. Chúng tôi đã có nó ngày hôm nay. Từ đó em càng yêu Bác hơn, càng thêm tự hào về tinh thần thơ ca dân tộc cao cả. Đồng thời dạy cho em thái độ sống trước cuộc đời, trước những gian nan, vất vả, đứng trước những khó khăn, thử thách của cuộc đời, em vẫn kiên định niềm tin, hướng về ngọn lửa đỏ, hướng về một tương lai đầy hy vọng. . .Thử thách hiện tại dù có tạo cho bạn áp lực cũng không thể khiến bạn gục ngã, kiệt sức có thể lung lay nhưng đừng lùi bước, hãy đối mặt với mặt trời, bóng tối ở sau lưng bạn. Luôn tích cực trong mọi tình huống.
Cảm nhận Chiều tối – mẫu 5
Chạng vạng là một trong những bài thơ hay tả cảnh đời thường giản dị nhất trong nhật ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tù. Thơ Bác thường thế này, thoạt nghe có vẻ tẻ nhạt nhưng thực chất vẫn là những ẩn dụ quen thuộc:
“Chim mỏi về rừng tìm chỗ ngủ
Cho mây trôi nhẹ giữa từng không”
Trên thực tế, nó là một hình ảnh tích cực trong mắt của các nhà sư hoặc nhà thơ khi trời tối trên núi.
Buổi tối là khi ánh sáng ban ngày chưa tắt hẳn. Khi ấy, giữa núi rừng không đường chân trời, chỉ có thể thấy mờ mờ ánh tà dương của mặt trời lặn trên đỉnh trời. Tự nhiên nhà thơ vừa ngước mắt lên đã thấy đàn chim mỏi tìm nơi trú đậu trên vòm cây.
Khung cảnh thật đìu hiu, hiu hắt khi buổi chiều trôi qua. Đó là thời điểm sum họp, mọi người được đoàn tụ với gia đình sau một ngày mệt mỏi, nhưng cô chú không có cảm giác ấm áp đó. Người tù bị đày ải nơi đất khách quê người với những khổ đau oan trái, có lẽ nỗi nhớ nhà da diết đang dày vò chủ thể trữ tình. Trong lòng anh, nỗi nhớ quê hương chưa bao giờ nguôi…
Tuy nhiên, thơ Hồ Chí Minh còn có một nét rất độc đáo nữa là dòng chảy thơ, hình tượng thơ, quan niệm nghệ thuật thơ ít khi tĩnh mà thường vận động lành mạnh, bất ngờ, hướng tới sự sống và ánh sáng.
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Nếu nói về cảnh thì sự chuyển cảnh của câu thơ này cũng rất tự nhiên. Khi màn đêm buông xuống, bóng tối bao trùm khán giả, nhà thơ chỉ biết hướng mắt về ánh đèn. Đó là ánh sáng soi rọi hình ảnh cô thôn nữ xay ngô cho bữa tối.
Ở đoạn thứ ba, người dịch đã thêm từ “tối” vốn không có trong nguyên bản. Từ ngữ không có gì sai nhưng nó ít nhiều làm mất đi cái tinh tế của bài thơ. Nó vừa bộc lộ ý thơ, vừa làm cho nội dung bớt gợi.
Lệ Chi Viên cũng tìm thấy một chỗ vô cùng tinh tế trong bài thơ này. Sự đảo ngược của “Ngựa con” và “Hộp ma của ngựa” làm cho bài thơ này rất lôi cuốn và đặc biệt. Thời gian trôi theo cánh chim và mây, với lượt cuối cùng của cô gái, quay vòng và đến lúc phải dừng lại, lò than đã hồng rực và biến thành thứ ánh sáng kỳ diệu. đẹp. Ánh sáng phát ra từ bên kia lò than không chỉ là ánh sáng thắp lên trong đêm tối mù sương, mà còn là ánh sáng của niềm tin và hy vọng mà Bác đã luôn tin tưởng, giao phó. Đọc thơ Bác thấy buồn nhưng tràn đầy niềm tin và hy vọng, có lẽ chính vì vậy.
Hai khổ thơ đầu là cảnh buồn, cảnh chiều, hình ảnh chim muông, người mỏi mệt trước khi khách khuất, nhưng hai khổ thơ cuối là niềm hân hoan, một niềm tin thiết tha mong chờ hình ảnh chân chính. lửa hồng. Một hình ảnh nhỏ có thể sắp xếp cả bài thơ và làm cho cả bài thơ bừng lên sự ấm áp. Cuộc sống, ánh sáng, niềm vui của con người hiện lên ở trung tâm bức tranh được nhà thơ miêu tả, tỏa sáng rực rỡ, xua đi vẻ hiu quạnh, kiệt quệ của cảnh núi rừng lúc chiều tà.
Nguyễn Du đã từng nói: “Người buồn có bao giờ vui”. Chân lý này hoàn toàn phù hợp với hai câu thơ đầu. Nhưng ở hai câu thơ này, điều chúng tôi muốn nhấn mạnh là vì bi kịch nên con người cũng muôn phần sầu bi. Tuy nhiên, trong hai câu thơ tiếp theo, niềm vui trở lại. Niềm hi vọng, niềm tin gửi gắm trong hình ảnh tiếng gọi lửa đỏ càng làm cho bài thơ thêm tươi vui, sinh động…
Bấy giờ tôi mới biết niềm vui nỗi buồn của Bác là niềm vui nỗi buồn của đất nước. Có khả năng kiểm soát những bất hạnh, nhà tù, đau khổ và mối quan tâm của chú đối với đất nước của mình …
Cảm nhận của em về bài thơ “Chiều tối” Ví dụ 6
Bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh là bài thơ khắc họa bức tranh chiều tà và bức tranh miêu tả người phụ nữ lao động rất đẹp. Bài thơ này được nhà văn Hồ Chí Minh viết khi Người đang bị giam giữ trong nhà tù của chế độ Tưởng Giới Thạch và bị áp giải từ nhà tù này sang nhà tù khác.
Bài thơ “Chiều tối” chỉ có bốn khổ nhưng đã vẽ nên hai bức tranh hoàn toàn khác nhau. Đó là bức tranh thiên nhiên và bức tranh con người hoàn toàn đối lập. Qua bài thơ này ta thấy dù trong hoàn cảnh khó khăn nhưng tác giả Hồ Chí Minh vẫn thể hiện tinh thần yêu thiên nhiên và niềm tin lạc quan vào cuộc sống.
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.”
Trong hai bài thơ này, tác giả Hồ Chí Minh đã vẽ nên một bức tranh rất ảm đạm về cảnh mặt trời lặn, thể hiện cảnh vội vã của những chú chim tìm tổ, kiếm ăn, kiếm ăn sau một ngày kiếm ăn mệt mỏi. Chú chim nhỏ và bầu trời bao la tạo thành một sự tương phản thú vị, diễn tả nỗi cô đơn của cảnh vật và nỗi buồn trĩu nặng trong lòng.
Trên bầu trời xanh bao la, những đám mây trắng trôi lững lờ, trái ngược hoàn toàn với sự vội vã của những chú chim mỏi mệt. Khung cảnh thiên nhiên nơi núi rừng cao nguyên hoang sơ, hiểm trở vô cùng đẹp đẽ, nên thơ và lãng mạn, có tiếng chim hót, hoa thơm nhưng cũng gợi một chút hoang vắng, khiến người đọc cảm thấy cô đơn.
Trong hai câu thơ này, tác giả Hồ Chí Minh đã sử dụng nghệ thuật thư pháp cổ điển vô cùng tài tình, dùng cánh chim làm biểu tượng cho mặt trời lặn. Và tận dụng ánh chiều tà của mặt trời lặn để nói lên nỗi buồn trong lòng. Bởi khi người ta nhìn thấy hoàng hôn bao giờ cũng gợi lên một cảm giác buồn bã, cô đơn trước khi ngày tàn, mặt trời khuất dạng, màn đêm buông xuống. Tác giả Hồ Chí Minh hoàn cảnh lúc này thật khó cho con người vui mừng, bởi con người đang phải chịu nỗi đau mất tự do, tay chân bị còng, bị còng, bị áp giải ra đường sau một ngày mệt mỏi. Nghĩ đến quê hương, khi quê hương còn chịu ách nô lệ thực dân, lòng tác giả vẫn nặng trĩu, không khỏi bộc lộ tâm trạng xót xa.
Thiên nhiên và con người lúc này dường như đang cộng hưởng khi thiên nhiên, chim muông, mây trời cùng trút nỗi niềm sau một ngày mệt mỏi. Những người bị tước quyền tự do không biết khi nào và ở đâu họ sẽ bị áp giải. Sự mệt mỏi về tinh thần và thể chất của tù nhân.
Trong tâm trạng của tác giả cũng thể hiện nỗi buồn xa quê hương thân yêu. Trước cảnh đẹp núi rừng, lòng người vẫn chưa thể thảnh thơi sung sướng. Tuy nhiên, ở hai phần tiếp theo, không gian ảnh phong cảnh:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Hai câu tiếp theo thể hiện phong cách “đánh nét chữ” của tác giả Hồ Chí Minh, nhà thơ đã dùng chữ “Hồng” để tạo nên “chữ chấm” của riêng mình. Hình ảnh người con gái cặm cụi làm việc đến tận khuya, trên gương mặt lấm tấm những giọt mồ hôi thể hiện vẻ đẹp giản dị, duyên dáng của người con gái lao động cần cù.
Cô gái xay ngô bên bếp than hồng quên cả bóng đêm đã khắc họa nên bức tranh vô cùng sinh động và đẹp đẽ về cuộc sống gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Bức tranh cuộc sống này làm sống dậy những câu thơ và mang đến màu sắc tươi vui cho lòng người. Chân dung của cuộc sống ấm áp.
Hình ảnh lò hồng là hình ảnh trung tâm, nhãn thơ, làm cho người con gái trong sáng, tươi tắn hơn. Lò hồng còn tô thêm bức tranh buồn man mác năm xưa vào toàn bài thơ, tạo nên một nét chấm phá mới trong thơ Hồ Chí Minh. Một cô gái quê chăm chỉ, năng động bên bếp lửa hồng càng làm cho bài thơ thêm trẻ trung, tươi mới. Đồng thời cũng thể hiện tinh thần lạc quan của tác giả Hồ Chí Minh.Mặc dù trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn nhưng tác giả vẫn rất trẻ trung và tràn đầy lạc quan vào cuộc sống tương lai.
Bài thơ “Chiều” của Hồ Chí Minh là bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn phong cách cổ điển và hiện đại, giữa thiên nhiên và con người. Đoạn thơ này dựng nên hai bức tranh thiên nhiên và con người vô cùng đẹp đẽ đối lập nhưng lại phụ thuộc lẫn nhau. Qua bài thơ này, ta khâm phục tác giả bởi ông có một tinh thần vô cùng lạc quan và một trái tim yêu thiên nhiên, cuộc sống.
Cảm nhận của em về bài thơ “Chiều tối” – Ví dụ 7
Nhật ký trong tù (1942-1943) soi sáng tâm hồn cao cả của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Tâm hồn chân thành yêu nhân dân, đất nước cũng như yêu thiên nhiên, cuộc sống. Tâm hồn ấy trong những ngày tù tội tăm tối luôn hướng về tự do, ánh sáng, cuộc sống và tương lai. Vào một buổi chiều buồn, trên đường bị giải đi Quảng Tây, Trung Quốc – trái tim nhà thơ – người tù bỗng thấy ấm áp, ngất ngây trước hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp và cuộc sống mục đồng thoải mái. Nhà thơ xúc động viết nên những vần thơ. Bài thơ này được viết vào cuối mùa thu năm 1942.
Trong bài thơ này có hai bức tranh rõ nét: hai câu đầu là cảnh thiên nhiên, hai câu cuối là cảnh đời.
Trên con đường yên tĩnh, thiên nhiên chờ đợi như một bông hồng:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Hình ảnh mặt trời lặn đã được xác định, thời gian về chiều đang chầm chậm trôi qua, không gian là bầu trời bao la, lúc này ánh nắng chỉ le lói nhẹ rồi nhường chỗ cho bóng đêm dần bao trùm. Xa xa là những cánh chim mải mê làm tổ, trên đầu là một đám mây trắng đơn độc bồng bềnh. Miêu tả thiên nhiên chỉ với vài cây bút mực nhưng gợi lên khung cảnh bao la, trong trẻo và yên bình của cảnh mặt trời lặn trên núi. Thiên nhiên mang vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng nhưng lại hiu quạnh, hoang vắng. Vẻ đẹp ấy đã lay động tâm hồn yêu thương của chú.
Hai dòng sử dụng bút pháp gợi tả, đặc biệt là thủ pháp cổ điển của chất thơ: cánh chim tượng trưng cho hoàng hôn, còn hoàng hôn là biểu tượng của nỗi buồn, nhất là đối với người xa lạ. Đối với Tổ quốc, Thôi Hiệu viết:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Hoàng Hạc lâu)
Và những ai đi đường dài dưới ánh hoàng hôn ấy dễ cảm thấy cô đơn và chạnh lòng.
Bài thơ có cách cảm nhận thế giới quen thuộc của thơ cổ, tự nhiên thấu cảm nỗi lòng của con người. Sau một ngày kiếm ăn vất vả, hình ảnh con chim như ẩn dụ cho người tù mệt mỏi sau một ngày bị giam cầm. Mây buồn là hình ảnh ẩn dụ cho tâm trạng cô đơn, buồn tủi của người tù. Tứ thơ từ xưa đến nay không thuần nhất vì thiên nhiên cộng hưởng với con người. Chơn chất mỏi mệt vẫn có nơi nương tựa, cô đơn mà tự do mà người tù không biết đi về đâu, mất tự do vô hạn. Vì vậy, các nhà thơ khao khát tự do và quê hương. Có ý nghĩa tả cảnh chứa tình, đó là vẻ đẹp giàu có của thơ ca cổ điển.
Tóm lại, hai câu thơ gợi ra một cảnh thiên nhiên đẹp nhưng buồn, bởi “người buồn bao giờ vui”.
Buồn vì xa Tổ quốc, buồn vì bị oan sai, buồn vì biết mất tự do bao giờ. Nhưng trước vẻ đẹp của cảnh ấy, lòng người ít nhiều tìm thấy niềm vui, sự thư thái.
Nét nghệ thuật của bài thơ này là chỉ sử dụng hai hình ảnh chuyển động để miêu tả không gian: chim bay và mây trôi nhưng lại diễn tả sự quay vòng của thời gian: chiều đang dần trôi vào đêm.
Không gian thay đổi, cảnh sinh hoạt nơi xóm núi diễn ra thật tự nhiên:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng
Hai câu thơ sử dụng bút pháp nổi bật của thơ cổ điển nhưng lại ghi lại hình ảnh thơ giản dị, chân thực theo phong cách hiện thực. Hình ảnh cô gái đang tập trung xay ngô cho xong trước bếp lửa gợi lên một bức tranh cuộc sống bình dị, dung dị và vẻ đẹp thanh bình. Đặc biệt đối với những người tù kiệt quệ, thiếu thốn, khung cảnh đó trở nên hấp dẫn, quý giá và thiêng liêng vô cùng, bởi nó thuộc về thế giới của tự do. Chỉ những ai đã từng trải qua đau thương, sóng gió mới thấy hết giá trị của từng giây phút được sống bình yên. Vì thế, bức tranh cuộc sống trở thành nguồn thơ dồi dào, thể hiện sự rung động, rung động mãnh liệt của trái tim thi nhân.
Bếp lửa hồng là hình ảnh nổi bật trung tâm của bức tranh thơ, làm nổi bật bóng hình người con gái. Nó sưởi ấm bức tranh cô quạnh của thiên nhiên. Sưởi ấm bao tâm hồn thi nhân. Vì vậy, hình ảnh về cuộc sống của con người là một tập hợp những vẻ đẹp nên thơ, tỏa sáng và ấm áp. Hình ảnh bếp lửa bên cạnh cô gái tạo nên một hình ảnh thơ mộng, giàu sức sống của tuổi trẻ. Hoàng Trung Thông cho rằng chữ hồng là nhãn của bài thơ này và vì thế. Khổ thơ cuối khỏe, đẹp thể hiện niềm vui, sự yêu đời, yêu cuộc sống. sự lạc quan của Bác.
Bởi vậy, hai câu thơ này là cái nhìn của người qua đường, nhưng là ánh mắt của kẻ khao khát cuộc sống bình dị, bình dị. Vì vậy, khi nhìn thấy cảnh người nơi núi rừng, lòng tôi tràn ngập yêu thương và vui sướng. Không phải ngoại cảnh tác động đến con người mà chính là tình cảm của con người che đậy ngoại cảnh. Thiên nhiên đẹp, nhưng không đủ để mang lại niềm vui. Cuộc sống tốt đẹp mang theo niềm vui dồi dào. Có thể thấy nhà thơ có phẩm chất nhân văn cao cả.
Nguyên văn chữ Hán không có ẩn tự, dịch thừa. Đừng mô tả đêm, nhờ ánh lửa của lò than, tôi vẫn cảm thấy. Mang bóng tối ra ánh sáng, nghệ thuật ở đó.
Hình ảnh thơ vận động tự nhiên, bất ngờ, khỏe khoắn: từ lạnh lẽo, cô đơn đến đầm ấm, đoàn tụ, từ bóng tối đến bình minh, từ buồn đến vui… Đây là nét độc đáo trong phong cách thơ của chị. Bác ơi, niềm tin yêu sống cả trong những ngày đau khổ nhất.
Bài thơ “Chiều tối” đạt được sự hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách hiện đại, giữa thiên nhiên và tâm hồn. Bài thơ này cho phép người đọc thưởng thức cuộn bức tranh tuyệt đẹp của thiên nhiên và cảm nhận vẻ đẹp của một trái tim lớn. Tâm hồn phong phú, giàu cảm xúc, nhân hậu và thiết tha với thiên nhiên và cuộc sống con người, luôn hướng về sự sống và ánh sáng, tinh thần lạc quan trong đau khổ.
Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Chiều tối
Chiều trong như mùa thu, vẫn là nguồn cảm hứng bất tận của thi nhân từ xưa đến nay. Hồ Chí Minh là một nhà thơ lớn nên không có gì ngạc nhiên khi tâm hồn Người rung động trước cảnh chiều tà. Ngay trong tập “NKTT” ta sẽ bắt gặp nhiều bài thơ về cảnh đêm: Hoàng hôn, Cảnh chiều, nhưng quen thuộc nhất là bài “Bữa tối” (mộ). Qua đoạn thơ này ta thấy được bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người tươi đẹp, cũng như tâm hồn cao cả của Bác Hồ.
Nhật ký trong tù (1942-1943) soi sáng tâm hồn cao cả của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Tâm hồn chân thành yêu nhân dân, đất nước cũng như yêu thiên nhiên, cuộc sống. Tâm hồn ấy trong những ngày tù tội tăm tối luôn hướng về tự do, ánh sáng, cuộc sống và tương lai. Vào một buổi chiều buồn, trên đường bị giải đi Quảng Tây, Trung Quốc – trái tim nhà thơ – người tù bỗng thấy ấm áp, ngất ngây trước hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp và cuộc sống mục đồng thoải mái. Nhà thơ xúc động viết nên những vần thơ. Bài thơ này được viết vào cuối mùa thu năm 1942.
Trong bài thơ này có hai hình ảnh rõ nét: hai câu đầu nói về cảnh mặt trời lặn, hai câu cuối nói về cuộc sống thường ngày.
Hoàng hôn
Trên con đường yên tĩnh, thiên nhiên chờ đợi như một bông hồng:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Hình ảnh mặt trời lặn đã được xác định, thời gian về chiều đang chầm chậm trôi qua, không gian là bầu trời bao la, lúc này ánh nắng chỉ le lói nhẹ rồi nhường chỗ cho bóng đêm dần bao trùm. Xa xa là những cánh chim mải mê làm tổ, trên đầu là một đám mây trắng đơn độc bồng bềnh. Miêu tả thiên nhiên chỉ với vài cây bút mực nhưng gợi lên khung cảnh bao la, trong trẻo và yên bình của cảnh mặt trời lặn trên núi. Thiên nhiên mang vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng nhưng lại hiu quạnh, hoang vắng. Vẻ đẹp ấy đã lay động tâm hồn yêu thương của chú.
Hai dòng sử dụng bút pháp gợi tả, đặc biệt là thủ pháp cổ điển của chất thơ: cánh chim tượng trưng cho hoàng hôn, còn hoàng hôn là biểu tượng của nỗi buồn, nhất là đối với người xa lạ. Đối với Tổ quốc, Thôi Hiệu viết:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Hoàng Hạc lâu)
Và những ai đi đường dài dưới ánh hoàng hôn ấy dễ cảm thấy cô đơn và chạnh lòng.
Bài thơ có cách cảm nhận thế giới quen thuộc của thơ cổ, tự nhiên thấu cảm nỗi lòng của con người. Sau một ngày kiếm ăn vất vả, hình ảnh con chim như ẩn dụ cho người tù mệt mỏi sau một ngày bị giam cầm. Mây buồn là hình ảnh ẩn dụ cho tâm trạng cô đơn, buồn tủi của người tù. Tứ thơ từ xưa đến nay không thuần nhất vì thiên nhiên cộng hưởng với con người. Chơn chất mỏi mệt vẫn có nơi nương tựa, cô đơn mà tự do mà người tù không biết đi về đâu, mất tự do vô hạn. Vì vậy, các nhà thơ khao khát tự do và quê hương. Có ý nghĩa tả cảnh chứa tình, đó là vẻ đẹp giàu có của thơ ca cổ điển.
Tóm lại, hai câu thơ gợi ra một cảnh thiên nhiên đẹp nhưng buồn, bởi ‘‘người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Buồn vì xa Tổ quốc, buồn vì bị oan sai, buồn vì biết mất tự do bao giờ. Nhưng trước vẻ đẹp của cảnh ấy, lòng người ít nhiều tìm thấy niềm vui, sự thư thái.
Nét nghệ thuật của bài thơ này là chỉ sử dụng hai hình ảnh chuyển động để miêu tả không gian: chim bay và mây trôi nhưng lại diễn tả sự quay vòng của thời gian: chiều đang dần trôi vào đêm.
Không gian thay đổi, cảnh sinh hoạt nơi xóm núi diễn ra thật tự nhiên:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng
Hai câu thơ sử dụng bút pháp nổi bật của thơ cổ điển nhưng lại ghi lại hình ảnh thơ giản dị, chân thực theo phong cách hiện thực. Hình ảnh cô gái đang tập trung xay ngô cho xong trước bếp lửa gợi lên một bức tranh cuộc sống bình dị, dung dị và vẻ đẹp thanh bình. Đặc biệt đối với những người tù kiệt quệ, thiếu thốn, khung cảnh đó trở nên hấp dẫn, quý giá và thiêng liêng vô cùng, bởi nó thuộc về thế giới của tự do. Chỉ những ai đã từng trải qua đau thương, sóng gió mới thấy hết giá trị của từng giây phút được sống bình yên. Vì thế, bức tranh cuộc sống trở thành nguồn thơ dồi dào, thể hiện sự rung động, rung động mãnh liệt của trái tim thi nhân.
Bếp lửa hồng là hình ảnh nổi bật trung tâm của bức tranh thơ, làm nổi bật bóng hình người con gái. Nó sưởi ấm bức tranh cô quạnh của thiên nhiên. Sưởi ấm bao tâm hồn thi nhân. Vì vậy, hình ảnh về cuộc sống của con người là một tập hợp những vẻ đẹp nên thơ, tỏa sáng và ấm áp. Hình ảnh bếp lửa bên cạnh cô gái tạo nên một hình ảnh thơ mộng, giàu sức sống của tuổi trẻ. Hoàng Trung Thông cho rằng chữ hồng là nhãn của bài thơ này và vì thế. Khổ thơ cuối khỏe, đẹp thể hiện niềm vui, sự yêu đời, yêu cuộc sống. sự lạc quan của Bác.
Bởi vậy, hai câu thơ này là cái nhìn của người qua đường, nhưng là ánh mắt của kẻ khao khát cuộc sống bình dị, bình dị. Vì vậy, khi nhìn thấy cảnh người nơi núi rừng, lòng tôi tràn ngập yêu thương và vui sướng. Không phải ngoại cảnh tác động đến con người mà chính là tình cảm của con người che đậy ngoại cảnh. Thiên nhiên đẹp, nhưng không đủ để mang lại niềm vui. Cuộc sống tốt đẹp mang theo niềm vui dồi dào. Có thể thấy nhà thơ có phẩm chất nhân văn cao cả.
Nguyên văn chữ Hán không có ẩn tự, dịch thừa. Đừng mô tả đêm, nhờ ánh lửa của lò than, tôi vẫn cảm thấy. Mang bóng tối ra ánh sáng, nghệ thuật ở đó.
Hình ảnh thơ vận động tự nhiên, bất ngờ, khỏe khoắn: từ lạnh lẽo, cô đơn đến đầm ấm, đoàn tụ, từ bóng tối đến bình minh, từ buồn đến vui… Đây là nét độc đáo trong phong cách thơ của chị. Bác ơi, niềm tin yêu sống cả trong những ngày đau khổ nhất.
Bài thơ “Chiều tối” đạt được sự hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách hiện đại, giữa thiên nhiên và tâm hồn. Bài thơ này cho phép người đọc thưởng thức cuộn bức tranh tuyệt đẹp của thiên nhiên và cảm nhận vẻ đẹp của một trái tim lớn. Tâm hồn phong phú, giàu cảm xúc, nhân hậu và thiết tha với thiên nhiên và cuộc sống con người, luôn hướng về sự sống và ánh sáng, tinh thần lạc quan trong đau khổ.
Cảm nhận bài thơ Chiều tối học sinh giỏi
Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của cả dân tộc mà quan trọng hơn Người còn là nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc. Tập thơ “Nhật ký trong tù” được Hồ Chí Minh viết khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ và tra tấn tại một nhà tù ở Quảng Tây, Trung Quốc. Bài thơ “Chiều” trích trong tập “Nhật ký trong tù” là một khắc họa hoàn hảo về bốn nhân vật bà thứ 31 trong tập thơ.
Trong số 133 bài thơ của tuyển tập này, có nhiều bài thơ ghi lại những khoảnh khắc trong ngày như sáng, trưa, chiều, tối. Đối mặt với thiên nhiên, đặc biệt là những thay đổi của đất trời. Bài thơ này ghi lại khung cảnh của ngôi làng miền núi vào cuối ngày trên con đường từ nhà tù Thiên Bảo đến Long Tuyền vào tháng 10 năm 1942.
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Tạm dịch là:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không”
Hai khổ thơ đầu miêu tả bầu trời cuối ngày, những chú chim mỏi mệt tìm tổ sau một ngày dài, một nơi an toàn, một mái nhà để nghỉ ngơi sau một ngày dài. Một đám mây nhẹ trôi trên bầu trời, như phản chiếu khung cảnh này. Mây trôi vô định, mây bay đi đâu, bay về đâu, tất cả là do gió. Cũng như chú lúc này tinh thần không u uất nhưng chú luôn cô độc giữa không gian và thiên nhiên. Kết cấu hai câu đối lập, giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Những người lính bị đày ải ngày ấy, cảnh hoàng hôn, muông thú vẫn sum họp để nghỉ ngơi sau một ngày dài, và người chú vẫn còn ở nước ngoài. Vẫn xa nhà, vẫn một mình. Người lính bị bắt nhìn lên trời, thấy chim bay, mây nhẹ mà lòng thấy nao nao. Tác giả đã khéo léo khắc họa một không gian thể hiện quan niệm nghệ thuật trước mắt người đọc.
Hai câu đầu mang vẻ đẹp của điển tích, không tả nhiều nhưng gợi liên tưởng. Chỉ hai nét vẽ thôi đã cảm động cái hồn của cảnh vật và tâm trạng của tác giả. Hình ảnh chim mỏi, mây bay thường xuất hiện trong văn Nho như chất liệu, nguồn cảm hứng sáng tác thơ ca. Cảnh chiều tối của xóm núi cũng mang tính ước lệ, mở rộng sự liên tưởng và cảm xúc thẩm mỹ.
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
Tạm dịch là:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Đó là hai câu cuối của bài thơ, từ trời đến người, cuộc sống nơi núi rừng, lao động hàng ngày, một bức tranh giản dị đáng yêu. Thiếu nữ tiếp tục công việc của mình, nhắc lại cụm từ “Ma bao bao” ở đầu câu 4 có nghĩa là vòng quay, vòng quay của cối xay, công việc là công việc hàng ngày của cô gái. Giống như quay của một nhà máy. Hành động này dần trở thành thói quen. Sự cần cù, chịu khó của cô gái miền sơn cước. Thời gian cô gái làm việc có lẽ là từ sáng sớm, trong bếp đầy củi, đến chiều tối cô mới làm xong, củi trong bếp cũng đã cháy hết chỉ còn lại những hòn than hồng.
Sự việc hiện lên theo thời gian trong hành động cô gái xay ngô, cô xay ngô cho xong. Như than hồng cháy, ấm áp vô cùng. Khi màn đêm buông xuống, khung cảnh tối đen như mực, bếp than đỏ rực, cảnh tượng này đã thu hút trái tim của những người tù——Hồ Chí Minh bị bắt đi. Hình ảnh một cô gái trẻ đang làm việc cố gắng hoàn thành công việc trong ngày của mình, hình ảnh này tượng trưng cho mái ấm gia đình, một mái ấm gợi lên sự lạnh lẽo, buồn bã và tĩnh lặng trong khung cảnh.
Những cảnh hướng về cuộc sống đời thường, chân tay mang xiềng xích nặng nề, bị khiêng đi vào buổi tối. Anh đã tìm được nơi nương tựa cho tâm hồn mình. Không khí tối tăm và màn đêm đã biến mất, thay vào đó là hơi ấm ấm áp. Những bài thơ đầy tâm hồn và nhân văn, và những hình ảnh đơn giản, ấm áp và trẻ trung. Sự thống nhất giữa con người và tự nhiên tạo nên sự hài hòa giữa con người và tự nhiên.
Qua bài thơ này, việc sử dụng cả bút pháp tả cảnh cổ điển và bút pháp hiện đại đã phác họa nên một khung cảnh u tối vừa gần gũi vừa xa lạ giữa người với người. Ngôn ngữ linh hoạt và sáng tạo làm cho vòng quay của cối xay ngô liền mạch và không bị gián đoạn.
Cảnh chiều là không gian chủ đạo của bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh, nổi bật là khung cảnh chuyển mình trong buổi chiều, cảnh chiều tuy buồn nhưng vẫn có ánh sáng rực rỡ gợi lên một chút vui tươi.
Cảm nhận bài thơ Chiều tối kết bài
Các em có thể tham khảo bài văn mẫu cuối buổi chiều dưới đây để hoàn thiện hơn cho bài văn của mình.
Kết bài cảm nhận Chiều tối – Mẫu 1
Đọc xong bài thơ này, hẳn ai cũng sẽ có những suy nghĩ của riêng mình. Với em, bài thơ này không chỉ khiến em cảm nhận được tình yêu quê hương của Bác mà còn khiến em trân trọng những công việc và cuộc sống giản dị, chân chất của những con người và cuộc sống hòa bình, tự do của thế hệ mai sau. Chúng tôi đã có nó ngày hôm nay. Từ đó em càng yêu Bác hơn, càng thêm tự hào về tinh thần thơ ca dân tộc cao cả.
Kết bài cảm nhận Chiều tối – Mẫu 2
Nguyễn Du đã từng nói: “Người buồn có bao giờ vui đâu bao giờ”. Chân lý này hoàn toàn phù hợp với hai câu thơ đầu. Nhưng ở hai câu thơ này, điều chúng tôi muốn nhấn mạnh là vì bi kịch nên con người cũng muôn phần sầu bi. Tuy nhiên, trong hai câu thơ tiếp theo, niềm vui trở lại. Niềm hi vọng, niềm tin gửi gắm trong hình ảnh tiếng gọi lửa đỏ càng làm cho bài thơ thêm tươi vui, tràn đầy sức sống. Bấy giờ tôi mới biết niềm vui nỗi buồn của Bác là niềm vui nỗi buồn của đất nước. Có khả năng kiểm soát những bất hạnh, nhà tù, đau khổ và mối quan tâm của chú đối với đất nước của mình …
Kết bài cảm nhận Chiều tối – Mẫu 3
Nghệ thuật thơ là nghệ thuật gián tiếp cổ điển nói lời tình cảm. Hình tượng trong bài thơ cũng là một quan niệm nghệ thuật. Nếu chỉ phân tích nó như một ranh giới giản đơn của hiện thực thì tất yếu sẽ xa rời thế giới nội tâm phong phú của nhà thơ.